Nhận định về Quang Dũng


Bạn gặp khó khăn khi viết bài luận? Cảm nhận về Quang Dũng? Đừng lo lắng! Mời các bạn đón đọc những bài văn mẫu được chúng tôi chọn lọc và biên soạn với nội dung hay nhất giải pháp hàng đầu Học cách làm và thêm từ vựng bên dưới. Hi vọng các bạn có được một tài liệu hữu ích!

Bạn đang xem: Nhận định về Quang Dũng

"Kwang Dũng - Một Màu Thơ Lính"

Một nhà thơ nổi tiếng đã nói: “Mọi người Việt Nam đều là nhà thơ”. Hàng nghìn năm trước ở nước ta, từ những người nông dân cần cù đến những người lính đánh giặc bảo vệ đất nước, ai cũng biết làm thơ để bày tỏ nỗi lòng. Cuộc kháng chiến hào hùng và gian khổ chống thực dân Pháp kể từ sau Cách mạng Tháng Tám đã được các nhà văn thuộc mọi tầng lớp xã hội miêu tả như một bản anh hùng ca đầy màu sắc. Nổi bật nhất là những bài thơ mang đậm dấu ấn chiến tranh mà tác giả chính là những người lính, cán bộ trực tiếp đánh giặc trên chiến trường: Tố Hữu, Huỳnh Văn Nghệ, Chín Hư, Quảng Đông. Trong số đó, nhà thơ chiến sĩ Quang Dũng được coi là trạng nguyên đặc sắc, độc đáo và được đưa vào chương trình phổ thông.

Quang Dũng bình luận ngắn hay nhất
Nhà thơ Kwang Dong

Nhà thơ Quang Dương (1921-1988), tên thật là Bùi Đình Dim (1) (còn gọi là Dậu vì ông sinh năm Đinh Dậu), quê ở huyện Đan Phụng, tỉnh Hà Tây. Học khoa cấp ba trường Thăng Long (Hà Nội), khi tốt nghiệp cấp ba, ông đi dạy thêm ở Sơn Tế. Vợ ông là bà Bùi Thị Thạch (tức Trạch), biết gieo vần, từng cùng chồng làm thơ. Vợ chồng nhà thơ sinh được 5 người con (2 trai, 3 gái) sau này đều thành đạt.

Hai con trai Bùi Quang Vinh và Bùi Quang Thuận khi lớn lên đều là nhạc sĩ. Con gái là Bùi Phương Hà và Bùi Phương Lê. Đặc biệt, con gái út của nhà thơ là Bùi Phương Thảo làm thơ, cô là phó hiệu trưởng trường tiểu học Võ Thị Sáu, quận Hoàn Kim, Hà Nội.

Sau Cách mạng Tháng Tám, khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, với tinh thần yêu nước như bao thanh niên thủ đô, ông hăng hái nhập ngũ, công tác ở Nha quân báo Bắc Kỳ, làm phóng viên tiền tuyến. Báo dành cho Chiến khu II. Sau đó, Quang Dũng được cử đi học Trường quân sự trung cấp Sơn Tiền (1947), mãn khóa, ông được phân công làm Tiểu đội trưởng Tiểu đoàn 212, Trung đoàn 52 Sơn Tiền, đánh địch trong bãi. Mèo bay Bi, Bạch Mai sửng sốt, choáng ngợp đồng thời sắm vai Phó đội trưởng Đội vũ trang tuyên truyền Việt Lào.

Cuối năm 1948, sau chiến dịch Tế Tiên, ông là Trưởng ban Tuyên huấn Trung đoàn 52 Tế Tiên, rồi Trưởng đoàn Văn công Liên khu III. Những năm tháng sống và chiến đấu ở Trung đoàn Tây Tiến là một thời kỳ vẻ vang và có ý nghĩa cao đẹp trong đời thơ Quảng Đông. Bài thơ Tế Tiên hay nhất được viết trong giai đoạn này theo lời tác giả nói với bạn bè: “Hồi ấy trong đoàn chúng tôi có nhiều người bị sốt rét, đầu trọc, khó khăn thiếu thốn, bộ đội không khỏi ngã bệnh. nhưng cũng chết vì sốt rét. Ở nhờ nhà dân, quen rồi, hễ nghe tiếng sông Hằng là lại tập trung ở nhà trưởng bản để tiễn biệt người đã từ biệt núi rừng."

Kwang Dung là một nghệ sĩ đa tài. Ngoài làm thơ, ông còn viết kịch, xuất bản truyện ngắn và triển lãm tranh với các họa sĩ nổi tiếng. Anh còn sáng tác nhạc phẩm: Bài ca nổi tiếng Ba Vì của Quang Đăng, được trình diễn nhiều lần ở vùng kháng chiến. Bài thơ đỉnh cao của Tế Tiên được sáng tác khi ông dự Đại hội đại biểu quân đội ở Liên khu III (1948) tại Phủ Lỗ Chân, Hà Đông. Tháng 8 năm 1951, Quang Đăng xuất ngũ và tiếp tục hoạt động văn nghệ. Sau thời gian làm biên tập viên cho báo Văn nghệ, nhà thơ Quang Dương về làm việc tại một nhà xuất bản văn học. Bài thơ nổi tiếng nhất của Quang Dũng là Tây Tiến, cũng đã được phổ nhạc ở Nam Bộ lúc bấy giờ, được xuất bản và lưu hành rộng rãi. Tuy nổi tiếng nhưng nhà thơ Quang Dương sống rất thanh bạch, khiêm tốn, thanh đạm, không thích phô trương hay nói về mình cũng như về tác phẩm của mình.

Trong các cuộc trò chuyện và quan hệ bạn bè, anh thường lắng nghe người khác thay vì đặt câu hỏi, dù ai cũng biết Kwang Dong cao ráo, đẹp trai và rất giỏi nghệ thuật. Nhiều người biết rằng nhà thơ lãng mạn Gwen Bean không thích những người có nhiều tiền, tự cao hay khoe khoang: “Kẻ đầu trọc nói chuyện thiên hạ/Lão lưu manh thôi nói văn/Tư bản xe cao hơn núi/Còn học kiểu Man Thung”. Quang Dũng cũng rất coi trọng sứ mệnh cao cả của văn học nghệ thuật nên rất ghen tị với những kẻ giàu có muốn đổi tác phẩm văn học lấy tiền. Nhận được thư của một phú ông mời một nhà thơ nổi tiếng đến nhà làm thơ xin tiền, Quang Đông không ngần ngại từ chối và cay đắng hỏi “Văn và chữ sao rẻ thế?”

Người ta thường nhắc lại phong cách dời nhà văn Tế Tiên của Nguyễn Tuân. Nhà văn Đỗ Chu, trong một lần gặp gỡ các bạn văn kháng chiến, đã cho xuất bản Đời sống lãng mạn của Kwang Dong. Nhà thơ mời một người bạn là họa sĩ nổi tiếng về thủ đô đóng một chiếc xe trâu cho chuyến hành trình về phương Nam. Trên đường đi, cả hai dự định sẽ kiếm sống bằng cách ghé thăm các đường phố ở Nhật Bản, nơi có nhiều người vẽ và bán tranh vì Kwang Dung cũng là một họa sĩ giỏi. Đang đi giữa đường thì trâu bị ốm không kéo được xe nữa nên phải bán cả trâu lẫn xe. Đối tác của nghệ sĩ trở nên nản lòng và di chuyển về phía bắc. Riêng Quang Dũng, chuyển lên tàu và tiếp tục đi về phía Nam. Vào đến Sài Gòn, nhà thơ trở lại Campuchia, rồi cuối cùng trở lại Hà Nội. Sau đó, vì đam mê cách mạng, Quang Đăng sang Trung Quốc hoạt động cách mạng nhưng không xong nên phải trở về quê hương. Với gia đình là người có cơ thể khỏe mạnh, Quang Đông gánh vác mọi việc nặng nhọc trong nhà, luôn quan tâm, yêu thương vợ con.

Với bạn bè, nhà thơ Quang Đông kính trọng và thường lui tới với các văn nghệ sĩ tên tuổi như Nguyễn Đình Thi, Văn Cao, Tô Hối, Nguyễn Tuân, Trần Lê Văn, bà Xuân Quỳnh, họa sĩ Phan Kế An... bằng mực tàu, cùng một số tranh vẽ trên tường của Điêu Quang Đông. Gia đình thường ăn uống tiết kiệm. Theo cô con gái út Bùi Phương Thảo, nhiều khi khách đến nhà, tiếp khách nhà chỉ có vài đĩa lạc, đậu tương nhưng mọi người vẫn nói chuyện rôm rả như bắp rang.

Xem thêm: shut down là gì

Ngoài tranh và đàn, Quảng Đông còn có một số tác phẩm chung: thơ: Tế Tiên; Đôi mắt của cậu bé là con người; quán lề đường; Lính Râu; Truyện ngắn Mùa hoa thóc (1950); Những bài thơ sông Hồng (1956); Rừng biển quê hương (1957); Ngôi Nhà Bên Đồi (1970); Xóm Núi Đánh giặc (1976); Mặt Hồ Tây (bút ký, in 1984); Mây Trên Đầu Ô (1986); + Quang Dũng (Tuyển Tập, 1988)… Nhiều bài thơ hay của nhà thơ Quang Dũng đã được các nhạc sĩ nổi tiếng phổ nhạc: Tế Tiên (Phạm Duy); Người và Mắt người Sơn Tây (Phạm Đình Chương phổ nhạc và xuất bản tại Paris, Pháp); Người (nhạc Kung Tien on); Vô Đề (do 4 nhạc sĩ Việt Dũng, Phạm Trọng Cầu, Khúc Dương, Quang Vinh thể hiện).

Tuy số lượng thơ viết không nhiều nhưng Kwang Dong có những bài thơ được coi là xuất sắc, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người yêu thơ như: Tế Tiên, Hai Bờ, Mắt Người Sơn Tế... Ông đã từng giải thưởng về văn học nghệ thuật Giải thưởng quốc gia (2001).

Du hành vào thế giới bút mực, khắc họa cuộc đời và sự nghiệp của Kwang Dong, chúng ta nhận thấy mạch tư tưởng nổi bật nhất là tình yêu đất nước. Nội dung chủ đề ấy ẩn chứa trong Tây Tiến bài thơ giản dị với những hình ảnh khó quên của những người chiến sĩ yêu nước qua nỗi nhớ da diết của tác giả về một địa danh lịch sử hào hùng. Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ nhưng thơ mộng, ấm áp với núi rừng hiểm trở. Những thiếu nữ xinh đẹp, hoang dã và rụt rè trong bộ váy áo đẹp điểm xuyết hình sông núi vương giả và mê hoặc, tiếng kèn hoang dã tạo nên một không gian mơ màng, nửa hư nửa thực.

Phương Tây cũng là đất nước khơi nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sĩ: Bài ca con tàu (Chế Lan Viên), Chuyện tình Tây Bắc (Tô Hoài), Cô gái Hưng Yên lên Tây Bắc mở rộng (Huệ Cẩn)… Nơi ấy là địa bàn hoạt động của Binh đoàn Tế Tiên thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh thắng quân Pháp ở Thượng Lào và phía Tây. Bắc Việt Nam. Trong bộ đội Tế Tiến đa số là thanh niên Hà Nội, chiến đấu trong điều kiện hết sức gian khổ, vật chất thiếu thốn, lại bị sốt rét ác tính. Tuy nhiên, các chiến sĩ Tài Tiến vẫn chiến đấu dũng cảm với tinh thần lạc quan cách mạng. Người viết không bao giờ quên được bao kỷ niệm về người đại úy quân đội năm xưa, về mảnh đất lịch sử chan chứa tình yêu thương, tình người và tình đồng chí trong thời gian hoạt động cho cuộc chiến tranh giải phóng.

Nỗi nhớ là một nét son đẹp của tâm hồn người Quảng Đông: tình cảm lưu luyến, trường tồn đối với cội nguồn bắt đầu từ câu cảm thán đầu tiên: “Dòng sông mẹ đã xa rồi sao xuôi!” của nguyên tác bài thơ. Một cuộc săn tài sản kéo dài nhưng có giá cao nhất và được rất nhiều người ưa chuộng. Trong bài thơ đó, Kwang Dong đã thể hiện tài năng độc đáo và phong cách lãng mạn đầy ấn tượng của một nhà thơ tài năng. Tác giả có những lời bình tinh tế, sáng tạo và lãng mạn “Đoàn quân Tiên Tiến không mọc tóc/ Quân xanh oai phong/ Mắt đưa mộng qua biên giới/ Giấc mơ Hà Nội ngát hương”. Ý nghĩ sâu xa, lắng đọng đầy tính nhân văn “Bạn ơi đừng chảy nước dãi nữa/ Gác súng quên đời”.

Chọn lọc chi tiết, từ ngữ đắt, gợi tu từ cô đọng: Mường quách, Fa Luông, Mỵ Châu, đời xanh… Nhịp thơ, nhịp điệu của từ ngữ phù hợp, luôn luôn thi tứ, biến tấu lên xuống như tam luân để lựa chọn. với Cảnh thử nghiệm: “Dốc cong, dốc dốc/ Lợn hút mây, súng ngửi trời/ Nghìn thước lên, ngàn thước xuống/ Fa Lung quê ai, mưa xa”. Nhạc điệu du dương vốn có bởi nhà thơ sử dụng thể thơ thất ngôn mới mang tính nhạc điệu truyền thống của những âm hưởng bình dương. Ngoại trừ một vài chỗ ngắt nhịp như “Kar bari fa lung, mưa xa” để tạo cho người đọc cảm giác bất ngờ, vui tươi và hùng vĩ, nhà thơ chỉ sử dụng toàn từ láy – một biện pháp nghệ thuật được sử dụng. Trong số các nhà thơ nổi tiếng: “Người giang hồ rong chơi quên cố hương” (viếng mộ xưa – tan đà) hay “Sương theo trăng dừng chân trời/ Tương tư nâng lòng chơi vơi” (Nữ Hồ - Juan Dieu). Không thể không biết nhà thơ Quang Dũng đã từng viết những vần thơ rất hay về tình yêu “Em mãi đôi mươi/ Em là mùa xuân xanh/ Ngày ấy cây ổi thơm/ Và hoa ướt mưa thu/ Tóc em điểm mây trắng/ Mắt em như một thời đã qua…(Không có tiêu đề).

Nhận xét về Quang Dũng, ông hoàng thơ tình, Tạ Tiến khi đọc thơ của tác giả đã cảm thấy “cảm giác như có nhạc trong miệng” bởi thơ Quang Dũng rất giàu nhạc – và cả họa. Nhân vật Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng ca ngợi nhà thơ: “Tề Tiến ngày ấy là một người lính trẻ tài cao trong quân đội, sau này là nhà thơ Quảng Đông”. Tóm lại có thể nói: nhà thơ Quang Dõng biệt lập như một ốc đảo giữa lòng thơ và lẻ loi như một vì sao lẻ loi giữa không gian văn học kháng chiến, nhưng ông là một con người. Rừng thơm hoa lạ. Nhiều bài thơ đặc sắc đã được bạn đọc, phần lớn là học sinh, chiến sĩ cách mạng và cả những người lính cộng hòa yêu thích, sao chép và thuộc lòng. Tài năng thơ trữ tình chiến sĩ tại Hội thi dân ca toàn quốc.

—/—

Dưới đây là một số bài viết Cảm nhận về Quang Dũng mà đã được biên soạn. Hy vọng điều này sẽ giúp ích cho các bạn trong quá trình làm bài tập và luyện tập cùng tác giả. Tôi hy vọng bạn có một bài luận tuyệt vời!

Xem thêm: collectible là gì