Lựa chọn các bài báo hoặc chủ đề Phân tích hai câu chủ đề và hai câu thực trong Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương. Các bài văn mẫu được biên soạn và tổng hợp từ những bài văn mẫu hay nhất của các em học sinh trên cả nước một cách ngắn gọn, chi tiết và đầy đủ nhất. Chúng tôi mời bạn cùng tham gia!
Bạn đang xem: Phân tích hai câu đề và hai câu thực bài Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
Phân tích Hai câu nghi vấn và hai câu thực Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương – Bài văn mẫu 1

Hai câu kết gợi cảnh tự tình.
Đêm khuya tiếng trống canh vang,
Joan đỏ bừng khuôn mặt với nước.
Thời gian đã nửa đêm nên nơi đây thật tĩnh lặng, chỉ còn nghe tiếng trống canh xa xa, mọi người đã chìm trong giấc ngủ say, chỉ có nhà thơ là còn thao thức với cảm xúc của mình.
Khi bạn nghe thấy tiếng vang, tiếng trống đập có thể không phát ra. Tiếng trống trở thành tiếng vọng của một trái tim khắc khoải, khắc khoải. (Thảm của tôi không reo mà cốc cũng không/ Sao cái chuông buồn không kêu hả nhóc). Bao nhiêu mảnh đời đã chết ngạt trong con chữ ấy đang tràn ra.
Trước cảnh khuya cô đơn bẽ bàng trước bến nước mặt hồng trơ trơ. Cách sử dụng từ ngữ sáng tạo và đáng ngạc nhiên: Khuôn mặt hồng hào là một vẻ đẹp siêu phàm mà nếu dùng từ tầm thường thì đầy sự mỉa mai cay đắng, rẻ tiền. Trơ là động từ bị động biểu thị trạng thái bất động, nghĩa là trơ trọi, trơ trọi trước nắng gió cuộc đời. Thủ pháp quay mặt nhấn mạnh sự cô đơn, lẻ loi, tủi nhục về nhân phẩm. Bài thơ chất chứa nỗi đau hồng nhan. Hồng nhan về nước non táo bạo và đầy thử thách, thể hiện bản lĩnh mạnh mẽ của nhà thơ, khát khao thoát ra khỏi cái lồng chật hẹp của kiếp người phụ nữ phong kiến.
Hai câu thực diễn tả rõ hơn hoàn cảnh của nhà thơ:
Một chén hương đưa lại cơn say cho tỉnh,
Trăng lưỡi liềm chưa tròn.
Có hai ẩn dụ trong hai câu thơ. Hương rượu cũng như hương tình, khi lên men thì nồng nồng, nhưng rồi cũng chóng tàn, để đời chao đảo nghiêng ngả. Thật trớ trêu khi làm nó cho bạn. Vị ngọt gợi cảm chỉ thoáng qua để lại dư vị chua chua, đắng chát. Say rồi tỉnh gợi ra một vòng luẩn quẩn không hồi kết. Và vầng trăng khuya càng hiu quạnh, lạnh lẽo. Trăng muộn bằng tuổi luống nhưng chưa hẳn vui. Hai hình ảnh mà hai lần đau. Trăng của Thúy Kiều (Truyện Kiều - Nguyễn Du) là trăng vỡ, của Xuân Hương là trăng tàn mãi.
Phân Tích Hai Câu Chủ Đề Và Hai Câu Thực Trong Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương – Bài Văn Mẫu 2

Trong xã hội phong kiến xưa luôn tồn tại tấm gương bất công trước số phận người phụ nữ. Sống trong một xã hội với quan điểm “trọng nam khinh nữ”, có những người bình tĩnh và cam chịu, nhưng cũng có những người nhận thức sâu sắc bi kịch của chính mình và phản kháng kịch liệt. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương là một người phụ nữ làm được. Bài thơ Tự Tình II là tập thơ gồm ba bài đã thể hiện rõ điều này. Bốn dòng đầu của bài thơ nói lên tâm trạng buồn bã, phẫn uất của nữ sĩ muốn vượt qua hoàn cảnh cũng như số phận của nữ sĩ:
“Tiếng trống gác khuya
Khuôn mặt hồng hào trong làn nước ngọt
Một chén hương đưa lại cơn say cho tỉnh
Trăng lưỡi liềm còn chưa tròn.”
Tâm trạng của tác giả nảy sinh vào đêm khuya, ý thức về thời gian được làm nổi bật, nhấn mạnh vào việc chuyển tải ý nghĩa tâm trạng:
Đêm khuya tiếng trống canh vang,
Joan đỏ bừng khuôn mặt với nước.
Giờ đã là nửa đêm, nên nơi đây thật yên tĩnh, tĩnh mịch, chỉ còn nghe tiếng trống canh xa xa, mọi người đã chìm trong giấc ngủ say, chỉ có nhà thơ là còn thao thức với cảm xúc của mình.
Khi bạn nghe thấy tiếng vang, tiếng trống đập có thể không phát ra. Tiếng trống trở thành tiếng vọng của một trái tim khắc khoải, khắc khoải. (Thảm của tôi không reo mà cốc cũng không/ Sao cái chuông buồn không kêu hả nhóc). Bao nhiêu mảnh đời đã chết ngạt trong con chữ ấy đang tràn ra.
Trước cảnh khuya cô đơn bẽ bàng trước bến nước mặt hồng trơ trơ. Cách sử dụng từ ngữ sáng tạo và đáng ngạc nhiên: Khuôn mặt hồng hào là một vẻ đẹp siêu phàm mà nếu dùng từ tầm thường thì đầy sự mỉa mai cay đắng, rẻ tiền. Trơ là động từ bị động biểu thị trạng thái bất động, nghĩa là trơ trọi, trơ trọi trước nắng gió cuộc đời. Thủ pháp quay mặt nhấn mạnh sự cô đơn, lẻ loi, tủi nhục về nhân phẩm. Bài thơ chất chứa nỗi đau hồng nhan. Hồng nhan về nước non táo bạo và đầy thử thách, thể hiện bản lĩnh mạnh mẽ của nhà thơ, khát khao thoát ra khỏi cái lồng chật hẹp của kiếp người phụ nữ phong kiến.
Xem thêm: catchup là gì
Hai câu thực diễn tả rõ hơn hoàn cảnh của nhà thơ:
Một chén hương đưa lại cơn say cho tỉnh,
Trăng lưỡi liềm chưa tròn.
Có hai ẩn dụ trong hai câu thơ. Hương rượu cũng như hương tình, khi lên men thì nồng nồng, nhưng rồi cũng chóng tàn, để đời chao đảo nghiêng ngả. Thật trớ trêu khi làm nó cho bạn. Vị ngọt gợi cảm chỉ thoáng qua để lại dư vị chua chua, đắng chát. Say rồi tỉnh gợi ra một vòng luẩn quẩn không hồi kết. Và vầng trăng khuya càng hiu quạnh, lạnh lẽo. Trăng muộn bằng tuổi luống nhưng chưa hẳn vui. Hai hình ảnh mà hai lần đau. Trăng của Thúy Kiều (Truyện Kiều - Nguyễn Du) là trăng vỡ, của Xuân Hương là trăng tàn mãi.
Như vậy, qua việc sử dụng ngôn ngữ giàu giá trị biểu cảm kết hợp với các biện pháp tu từ tương phản và sự sáng tạo trong xây dựng hình ảnh, bốn dòng đầu của bài thơ Tự tình II đã làm nổi bật cảm xúc về thời cuộc, đồng thời bộc lộ tâm trạng u uất. . Như cảm nhận sâu sắc về số phận bi thảm của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hùng. Chính những yếu tố đó đã giúp chị trở thành “Bà chúa thơ Nôm” và là nhà thơ nữ viết về phụ nữ bằng giọng điệu tự nhận thức đầy cảm thông và dũng cảm.
Phân Tích Hai Câu Chủ Đề Và Hai Câu Thực Trong Tự Tình 2 Của Hồ Xuân Hương – Bài Văn Mẫu 3
Hồ Xuân Hùng là một trong những nhà thơ nữ lớn của văn học Việt Nam, được mệnh danh là bà chúa thơ Nôm. Những bài thơ của cô tập trung vào những người phụ nữ có vẻ đẹp trang trọng và ý thức cá nhân cao. Nhưng đằng sau tất cả những bài thơ đó là nỗi đau bị rẻ rúng. Tình cảm ấy được thể hiện trong bài thơ Tự tình II và nó được thể hiện rất rõ nét ở hai câu tựa và hai câu nội dung của bài thơ.
Đêm khuya có tiếng trống gác
Joan đỏ bừng khuôn mặt với nước.
Chén rượu đưa hương say về tỉnh
Trăng lưỡi liềm chưa tròn.
Khoảng thời gian “khuya” khi vạn vật chìm vào giấc ngủ, và con người thức khuya, nghĩa là khoảng thời gian đối diện với chính mình, chìm đắm trong suy tư, buồn chán, thao thao bất tuyệt. Thuật ngữ "trống của thủ môn" gợi ý sự chuyển động rất nhanh của thời gian. Từ đó đọc được tâm trạng của con người trong bối cảnh lúc bấy giờ đang chất chứa nhiều cảm xúc, nào là bất an, lo lắng, hoang mang, hoảng sợ. Những nét vẽ chuyển động trái động và tĩnh trong tiếng “én” cho ta cảm nhận được âm thanh từ xa, cho thấy đó là một không gian rộng lớn, tĩnh lặng đến lạ lùng. Trong không gian ấy con người trở nên nhỏ bé, lẻ loi, lạc lõng, đơn độc.
Nỗi buồn, sự chán chường không chỉ được gợi lên trong không gian, thời gian mà được thể hiện rất trực tiếp trong luận điểm sử dụng từ ngữ mạnh mẽ.
Ngược lại, nữ sĩ đặt từ “trơ” ở đầu câu thơ để lại ấn tượng mạnh. Từ “trơ” đứng một mình ăn cả phách, vừa có thể chỉ thân phận trơ trọi, vừa có thể nói đến sự vô ơn (trơ). “Trơ” còn có ý nghĩa hơn thế này: “trơ” có nghĩa là đáng xấu hổ: “Đèn hoa để đó, cho anh ngủ” (Nguyễn Du, Thật Khâu); “Trơ” còn hàm ý mỉa mai cay đắng, khi “hùng diện” đi với hợp từ, “hồng nhan” đi với “thất bại” thì từ “hồng nhan” bị bỏ rơi, chẳng ai quan tâm. Đến và đi, là “trơ” với “nước non” (không gian), với thời gian không đầu không cuối. Càng nghĩ lại càng thấy tức giận, cay đắng và đáng thương. Cuộc đời Hồ Xuân Hương làm sao không vui với Nước Non, mà chỉ thấy “Bảy Nổi Ba Chìm với Nước Non”, chỉ thấy “Hồng Dung Nhi với Nước Non”? Điều này có nghĩa là Hồ Xuân Hương đau khổ, nhưng vẫn kiên trung bản lĩnh như “đá còn ăn sâu với trăng” (Bà Huyện Thần Quan, Thành Thăng Long Hoài Cổ).
Nỗi đau thân phận bồng bềnh giữa say và tỉnh Trong hai câu thực ấy, dường như Hồ Xuân Hùng đang khắc khoải ngồi, một mình trong cô đơn, làm bạn với chén rượu nóng, đối mặt với màn đêm. Trăng lạnh soi bóng đêm hiu quạnh.
“Cho ta chén rượu hương say,
Trăng lưỡi liềm, đang lặn, chưa tròn.”
Có hai ẩn dụ trong hai câu thơ. Hương rượu cũng như hương tình, khi lên men thì nồng nồng, nhưng rồi cũng chóng tàn, để đời chao đảo nghiêng ngả. Thật trớ trêu khi làm nó cho bạn. Vị ngọt gợi cảm chỉ thoáng qua để lại dư vị chua chua, đắng chát. Say rồi tỉnh gợi ra một vòng luẩn quẩn không hồi kết. Và vầng trăng khuya càng hiu quạnh, lạnh lẽo. Trăng muộn bằng tuổi luống nhưng chưa hẳn vui. Hai hình ảnh mà hai lần đau. Trăng của Thúy Kiều (Truyện Kiều - Nguyễn Du) là trăng vỡ, của Xuân Hương là trăng tàn mãi.
Hai câu thơ thực ra là cái nhìn của một lời than thở, một tiếng thở dài vang lên. Nhà thơ xót xa cho những bất hạnh của chị than và những người phụ nữ khác cùng hoàn cảnh với chị. Cả những lời than thở ấy đều đau đớn và xót xa, như những mũi kim châm vào tim người đọc, một nỗi đau xuyên thấu tâm can.
Qua phân tích hai câu đối và hai câu thực của Tư Tín, chúng ta phần nào hiểu được nỗi cô đơn, lẻ loi, xót xa, đau đớn trước kết cục tàn ác của Hồ Xuân Hùng, đồng thời là của những người phụ nữ thời bấy giờ.
—/—
Dưới đây là các bài văn mẫu Phân tích hai câu chủ đề và hai câu thực trong Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương Bằng việc sưu tầm và tổng hợp, hy vọng với tài liệu tham khảo này, các bạn sẽ hoàn thành bài văn của mình một cách tốt nhất!
Xem thêm: dawn on là gì
Bình luận